Buổi chiều ấy, trời như có người vừa rắc một lớp phấn mỏng lên cả làng. Nắng rót vàng nhạt, bụi tre đầu làng lấp loá như những sợi tơ khô của một con kén vừa bung. Tôi lái chiếc xe máy cũ của bố, mẹ vợ ngồi sau, tay ôm mũ bảo hiểm, chiếc khăn lụa màu ngà buộc hờ hững trên cổ bay lả tả như một câu hát hụt.
Mẹ bảo tôi chở ra thị trấn tập nhảy. Mấy đứa trẻ con trong xóm gọi mẹ là “cô Dung hồi xuân”, nửa đùa nửa trêu. Tôi lúc đầu nghe chữ “hồi xuân” cũng chát chúa nơi đầu lưỡi. Mẹ gần năm mươi, chợt thích áo có hoa, chợt thoa chút son, chợt tối thứ năm nào cũng xách túi đi học nhảy ở nhà văn hoá huyện. Bà con rì rầm, khen có, chê có; có người chép miệng bảo “đàn bà có con gái lớn rồi, nhảy múa cái nỗi chi”. Tôi nghe, im. Vợ tôi – Hạ – thì cười: “Mẹ hồi xuân để đuổi muỗi buồn.” Tôi cười theo, nhưng trong ngực cứ có một con muỗi thật, vo ve.
“Con rể!” – mẹ vỗ nhẹ vai tôi – “Đến đoạn rẽ bụi tre thì rẽ vào cho mẹ.”
“Vào… bụi tre?” Tôi ngoái đầu, lạ.
“Ừ. Vàng bụi tre đó.” Mẹ nói gọn. Gió đưa, mùi bồ kết thoảng từ tóc mẹ dịu như một câu chuyện kể nửa vời.
Chỗ “vàng bụi tre” là chỗ người ta vẫn tránh vào chập choạng vì hay có bóng. Những cây tre già vươn nghiêng, lá khô treo đầy, mỗi cơn gió thổi qua lại rào rào như ai nghiến răng. Tôi bẻ lái, bánh xe lạo xạo trên những mảnh tre khô gãy. Mẹ vỗ vai: “Dừng đây.”
Ở sâu hơn mấy bước, đất lún nhẹ, rêu trùm lên những viên gạch cổ. Giữa khoảng trũng lặng ấy là một nấm mộ cũ, bia xi măng đen mốc, chữ đã bạc đến mức như một công thức cũ viết bằng phấn trên bảng ẩm.
Tôi đứng lặng. Mẹ nói nhỏ, giọng như đặt một chiếc thìa xuống bàn gỗ: “Bố Hạ đấy. Con vào… thắp cho ông nén hương.”
Đầu gối tôi chùng xuống như vừa mất một bậc thang. Từ ngày cưới, tôi chỉ được nghe về bố vợ bằng mấy mảnh câu chuyện: ông đi xây xa xứ, rồi lạc đâu đó, rồi mất tin. Ảnh thờ trong nhà, mẹ đặt cao, che một góc bằng tấm khăn thêu hoa dại. Tôi tưởng mộ ông ở đâu tận quê ngoại. Hoá ra… ngay sau bụi tre vàng cách nhà vài phút xe.
Mẹ đặt vào tay tôi một bó nhang. Tôi châm lửa, ngọn lửa xanh lè đầu nhang bỗng vàng lên, khói quyện vào gió. Mùi trầm lẫn mùi tre khô, mùi đất cũ, mùi áo mẹ – tất cả trộn lại thành một nỗi gì khó gọi tên.
Tôi lẩm bẩm: “Con chào bố.”
Bàn tay mẹ nắm lấy khuỷu tay tôi, khẽ đến mức tưởng là gió. Mẹ hay nắm tay tôi như vậy mỗi lần muốn nói điều khó: không kéo, không đẩy, chỉ chạm cho bớt run. Mẹ bảo: “Con ở rể nhà này bốn năm rồi mà chưa biết đường vào đây, là… mẹ có lỗi. Nhưng thôi, nay vào là phải rồi.”
“Tại sao mẹ không nói sớm?” Tôi hỏi.
“Chờ ngày con rảnh.” Mẹ cười, mắt ươn ướt. “Mấy năm đầu tụi mày chạy ăn, chạy thuê nhà, chạy con. Mẹ… không muốn thêm cái chạy buồn. Với lại… mộ ông chưa được đàng hoàng.”
Tôi nhìn quanh. Quả đúng, mộ như một cái hộp quên, xung quanh cỏ mọc bời bời, có chỗ đã lấn lên mép bia. Tôi quỳ, rút trong túi khăn ướt lau những dòng chữ mờ:
NGUYỄN VĂN BẢY – 1966 – 2005. Một dòng nhỏ hơn: “Chết vì nước.” Dưới chân bia ai đó khắc một chữ “Hạ” nhỏ như một vệt mưa đậu.
“Chết vì nước?” Tôi ngước lên. “Ông… đuối nước ạ?”
Mẹ lắc: “Lụt năm đó. Ông đi vớt người.”
Tôi nhớ năm 2005, lũ lớn. Tôi mười bảy, vẫn còn ở quê. Một buổi tối, nước sông dâng nhanh như người ta rót canh; tôi ôm một cái can nhựa to, bơi qua vườn nhà bác tìm chỗ cao, thì bị cuốn. Lúc chới với, có một bàn tay giơ ra kéo, giọng đàn ông khàn khàn:
“Lấy hơi! Lấy hơi!” Tôi nắm lấy, được đẩy lên bờ. Người ấy lao đi tiếp, tôi chỉ nhìn kịp thấy một cái dây da nâu cuốn ở cổ tay, treo một cái còi đồng nhỏ. Sau đấy, tôi nghe nói có người đàn ông chết ở đầu cống. Không biết là ai. Tôi nghĩ “chắc người làng dưới”.
Quỳ trước bia mộ này, kí ức ấy như một giọt mực rơi xuống nước, loang nhanh.
“Ông… là người đeo còi?” Tôi buột miệng.
Mẹ nhìn tôi: “Con nhớ hả?”
Tôi kể. Mẹ im, rồi mở túi áo, rút một cái hộp thiếc cũ, đầu nắp móp một góc. Bên trong, có một cái còi đồng đã xỉn màu, dây da mòn sợi. Mẹ đặt lên tay tôi: “Đúng nó.”
Một cơn ớn lạnh chạy dọc lưng. Tôi nghe cổ họng mình khô khốc, như vừa uống hết một chén rượu đục.
“Ông vớt nhiều người lắm.” Mẹ nói khẽ, mắt nhìn vào khoảng mờ giữa hai chiếc lá tre. “Đêm ấy, người ta gọi nhau, đầu cống lùa xác. Ông cột dây ở lưng, nhảy xuống, đẩy người lên thuyền. Cái còi để thổi cho biết hướng. Có đứa mười bảy, ôm cái can, ông bảo ‘lấy hơi’, rồi đẩy nó lên bờ; nó… hệt như con kể.”
“Con…” Tôi nuốt nước bọt. “Con là thằng ôm can.”
Mẹ quay sang, nhìn tôi thật lâu, như soi mặt mình trong nước. Rồi mẹ cười—nụ cười vừa mừng vừa đau—đặt tay lên đầu tôi, xoa như xoa đầu một đứa trẻ vừa ngủ dậy: “Vậy hợp. Ông kéo con khỏi nước, giờ con tới thắp cho ông.”
Tôi cúi đầu thật thấp, hai tay chắp lại, trán chạm vào mép bia lạnh. Mùi đất chạm thẳng vào đỉnh mũi. Bỗng dưng, cái ghen ngầm ngầm với chữ “hồi xuân” của mẹ tan như một miếng băng mỏng đặt vào lòng bàn tay ấm.
“Mẹ…” tôi nói, “mẹ rủ con vào đây… chỉ để thắp hương ạ?”
“Chỉ.” Mẹ gật. “Nhưng không phải chỉ thắp. Mẹ nhờ con một việc.”
“Việc gì mẹ cứ nói.”
“Dời mộ ông.” Mẹ nói rành rọt, từng chữ như nhặt từng hạt bắp. “Đưa ông ra nghĩa trang làng cho đàng hoàng. Mẹ muốn… lát lại cho ông tấm bia cho tử tế. Mẹ để dành mấy năm rồi. Còn thiếu bốn triệu.”
Tôi giật mình. “Trời ơi, thiếu có bốn triệu mà mẹ không nói.”
Mẹ cười, đãi đằng: “Mẹ định… đợi cuối năm. Mà con rể ơi, nói ra sợ tụi mày gánh.”
“Gánh là việc của con.” Tôi nói, giọng chắc như cọc tre đóng xuống đất ẩm. “Con làm ngay.”
Mẹ khẽ gật, mắt mờ đi: “Cảm ơn con. Mẹ… hồi xuân cũng vì việc này.”
Tôi ngẩn: “Vì… dời mộ?”
“Ừ.” Mẹ cười, mím môi như giữ một bí mật chưa chín. “Hội phụ nữ huyện tổ chức đêm văn nghệ gây quỹ ‘Nắm tay nhau qua bờ bên’. Mẹ đăng ký học nhảy để diễn trong chương trình, góp tiền cho mấy nhà gặp tang khó—trong ấy có tên ông. Mẹ nhảy… vụng, người ta cười. Mẹ cũng cười. Nhưng mỗi lần tập, mẹ thấy người mình như bớt rỉ. Mẹ mang theo cái còi, cứ nghĩ… ông nhìn.”
Tôi… cứng họng. “Vậy còn chuyện người ta nói mẹ… với thầy dạy nhảy?”
“Mẹ nhảy với thầy thì phải nắm tay thầy chứ nắm tay trứng hử?” Mẹ bật cười, cái cười có mùi bồ kết. “Thầy nó bằng tuổi Hạ, gọi mẹ bằng cô. Mẹ chỉ nhảy cho chân đỡ đau thôi con.”
Tôi thấy mình nhỏ xíu như một hạt bụi tre trong nắng, vừa xấu hổ vừa nhẹ nhõm.
“Mẹ gọi con vào bụi tre,” tôi nói, “tưởng… mẹ rủ con làm điều… bí mật.”
“Mẹ rủ con làm điều bí mật thiệt chứ.” Mẹ nháy, rồi hạ giọng: “Bí mật của đàn bà già. Mẹ cần con đi cùng mẹ một đoạn, làm chỗ dựa lưng… để mẹ đứng vững mà nói với người ta: ‘Ông ấy không bỏ tôi. Ông ấy chết vì nước.’ Mẹ không sợ miệng đời, nhưng sợ… chữ ‘bỏ’ dính vào tên ông lâu quá rồi.”
nội.”