Ngày Minh bảo “mẹ ơi, con muốn cưới Thảo”, bà Hường không gật cũng chẳng lắc. Bà chỉ đặt cái bát xuống, tiếng sứ chạm vào mặt bàn gỗ nghe cạch một cái khô khốc. Ông Quang – chồng bà – nhìn sang, khẽ nhíu mày như muốn nói: “Từ tốn.” Còn Minh, vốn là thằng trai ngoan, lúng túng thêm một lời:
– Con… con nghiêm túc. Bọn con quen nhau gần hai năm.
– Nhà nó ở đâu? – bà Hường hỏi, giọng đều.
– Làng Đông, ngoài đê sông Đáy.
– Làng Đông? – Bà nhắc lại, khoé môi hất nhẹ. – Làng ấy tao đi qua vài lần. Nghèo rớt mùng tơi, ruộng lúa sát mép đường.
Minh im. Cậu biết mẹ mình thẳng tính, quen nhìn người qua bề ngoài. Cậu đã về nhà Thảo một lần – đúng hôm mưa lâm thâm. Căn nhà cấp bốn ở mé bên trái cổng làng cũ kỹ, tường quét vôi bong tróc, mái ngói nghiêng, mưa dột, hai chân tường rêu xanh. Nhưng điều Minh nhớ không phải thế. Cậu nhớ lúc đứng tựa hiên, nghe tiếng bà mẹ của Thảo gọi con gái: “Thảo ơi, vào đây con”, trong giọng đó có cái ấm của lửa rơm.
Bà Hường thì không. Bà nghe đâu nhà gái nghèo, vậy là trong đầu đóng đinh một chữ: “Kèo dưới.” Bà vốn là quản lý một công ty vật liệu xây dựng, quen đối tác lớn, dự tiệc sang; bà ghét cái nghèo luộm thuộm của thôn quê. Trong bữa cơm hôm ấy, bà chốt:
– Được, cưới. Nhưng lễ lạt phải gọn. Nhà họ nghèo, đừng bày vẽ tốn kém.
Minh mở miệng định nói về “lễ nghĩa” nhưng ông Quang chạm nhẹ chân con dưới gầm bàn. Ông hiểu vợ: càng cãi, bà càng găng.
1. Mẹ chồng và những mâm tráp
Sáng sớm một ngày gần Tết, bà Hường gọi con dâu tương lai qua nhà “thử việc” – tức là phụ bà chọn đồ cưới. Thảo đến, áo len màu be, tóc buộc cao, mắt hiền.
– Con chào bác ạ.
– Ừ, ngồi đi. – Bà Hường chỉ chiếc ghế. – Bác nói thẳng, nhà con nghèo thì nghèo, cứ chân thật. Cưới xin lằng nhằng chỉ khổ cha mẹ.
Thảo khựng một giây, rồi gật:
– Dạ, nhà con bình thường. Nhưng chuyện cưới xin, bố mẹ con dặn phải làm tròn lễ.
– Tròn vừa thôi. – Bà cười mỉm, nhưng khóe mắt lạnh.
Hôm bàn chuyện tráp, bà Hường bảo:
– Tráp hoa quả, bánh kẹo, chè, rượu, thuốc lá… ừ, truyền thống là thế. Nhưng làm vừa. Hôm mưa lần trước mẹ con đón chúng ta bằng ấm trà, cái kẹo vừng thôi là biết rồi. – Bà lơ đãng nhìn móng tay sơn nude. – Để tao lo.
Bà quyết tự tay sắm. Không đặt từ các cửa hàng cưới chuyên nghiệp – tốn tiền. Bà bảo Minh:
– Mẹ lên chợ Long Biên mua. Quả gì cũng có, rẻ mà tươi.
Minh nói:
– Hay mẹ đặt tráp chuẩn, cho đàng hoàng…
– Đàng hoàng với ai? – Bà bật cười. – Với nhà nghèo mà bày vẽ làm gì.
Tối trước ngày đi hỏi, 2 giờ sáng bà dậy, mặc chiếc áo khoác dạ be, xách túi vải to, gọi chị giúp việc đi cùng. Chợ Long Biên lúc ấy vẫn sáng hắt như một dòng sông ánh đèn. Người xe tấp nập, tiếng gọi í ới. Mùi trái cây chín xen kẽ mùi hoa tàn, mùi ẩm của bìa carton ướt.
Bà Hường rảo bước, nhắm mấy sạp lề đường: “Quả dập người ta bỏ, gom vào làm nước ép, rẻ bằng nửa.” Bà chọn những chùm nho phơn phớt trắng đã nhũn vài quả; những trái táo Mỹ hơi sẫm màu; xoài da lốm đốm; táo tàu héo.
– Cô ơi, loại này… – chị giúp việc ngập ngừng.
– Về gói lá đỏ, ai nhìn cho kỹ mà biết. – Bà liếc.
Bánh kẹo, bà ghé quầy bán sỉ: mấy thùng kẹo không nhãn tiếng Anh, vài gói bánh in loại rẻ, trà túi lọc không thương hiệu. Chị giúp việc lại ngập ngừng:
– Hay mình mua loại tốt hơn cho ra thể diện…
– Thể diện để làm gì? – Bà đáp, như cắt gọn một sợi chỉ.
Đến khi về, bà gọi dịch vụ bưng tráp chỉ để “bưng cho có người” – còn mọi thứ bà tự xếp. Bà tỉ mỉ cắt những quả dập, xoay mặt đẹp lên, dùng khăn giấy thấm bớt nước; dùng xi đánh bóng vỏ táo. Bà ưng ý.
– Thế này là phải đạo. Họ nghèo, tráp nhiều lại càng mang tiếng phô trương – bà nói, tự tin như vừa làm một việc thiện.
Minh nhìn những mâm quả, lòng chùng xuống. Cậu gọi cho Thảo.
– Mai bọn mình sang sớm nhé. Em đừng… đừng lo gì cả.
Đầu dây bên kia Thảo cười, tiếng cười mỏng như tơ:
– Em chỉ mong hai nhà vui vẻ. Anh nói với bác đừng ngại, nhà em tiếp đón được.
2. Đường về làng Đông
Sáu giờ sáng, đoàn xe xuất phát: hai xe bảy chỗ, một xe tải nhỏ chở tráp. Bà Hường ngồi ghế đầu, áo dài xanh cổ vịt, tóc uốn gợn, cổ đeo chuỗi ngọc trai. Ông Quang điềm đạm bên cạnh. Minh lái xe thứ hai, phía sau là họ hàng nhà trai, ai cũng áo dài đỏ, mặt mũi hồ hởi.
Trời cuối đông, sương rơi mỏng trên mặt đê. Qua khỏi cây cầu nhỏ, gió sông thổi phả lạnh râm ran. Bà Hường kéo cửa kính lên, làu bàu:
– Đường gì lổn nhổn đá. Cưới ở quê khổ.
Đoàn xe dừng đầu ngõ Làng Đông. Con ngõ rải bê tông, hai bên là hàng cau thẳng, mùi hoa bưởi thoang thoảng. Mấy đứa trẻ chạy theo xe nhìn người lạ, cười khanh khách. Bà Hường cau mày:
– Dừng đây. Để xem nhà cửa thế nào.
Bà định nói thêm câu “kẻo vào lát lại giày bẩn bùn” – thì đứng chết lặng.
Ngay đầu kia của ngõ, vượt qua luỹ tre, một căn biệt thự hai tầng mái dốc hiện ra, sơn trắng vân đá, bao quanh là vườn hồng ngoại xén tỉa gọn gàng, hiên gỗ lim, khung cửa kính lớn mở ra một phòng khách sang trọng. Trên cổng là biển gỗ khắc chữ “Nhà Vũ Thảo – Vũ Lâm”. Chữ thép “1936 – 2021” nhỏ phía dưới.
Bà Hường ngoảnh nhìn chị giúp việc, tưởng mình hoa mắt.
– Đây… đây là đâu?
Chị giúp việc lắp bắp:
– Dạ… nhà gái… nhà cô Thảo…
Cả đoàn nhà trai lặng đi. Mấy bà cô rì rầm: “Ôi giời ơi, tưởng nghèo… to nhất làng đây rồi.” Ông Quang quay sang vợ, khóe miệng nhếch nhẹ: “Bình tĩnh.” Minh nhìn qua kính xe, thấy Thảo vừa bước ra cổng, áo dài trắng thêu hoa sen, tóc vấn đơn giản. Em mỉm cười, cúi đầu chào đoàn.
Bên trái căn biệt thự, sát hàng cau, một căn nhà cấp bốn cũ kĩ hiện lên – đúng cái Minh từng thấy: mái ngói rêu, bờ tường nứt. Trước hiên, chiếc xe cút kít cũ dựng nghiêng, bên trong đặt cái cối xay lúa cổ. Trên đòn tay treo chiếc đèn dầu đen khói.
Bà Hường nuốt nước bọt. Bà cảm thấy bàn tay mình – bàn tay từng chọn những trái nho nhũn ở Long Biên – bỗng lạnh toát.