Popular Searches:

#AI

#Audio

#Blog

#Design

#Culture

#Fashion

#Sports

#Entertainment

Chở mẹ vợ đang hồi xuân đi tập nhảy, đến đoạn rẽ vào bụi tre đầu làng bà bắt dừng rồi bảo vào với mẹ một chút


Buổi chiều ấy, trời như có người vừa rắc một lớp phấn mỏng lên cả làng. Nắng rót vàng nhạt, bụi tre đầu làng lấp loá như những sợi tơ khô của một con kén vừa bung. Tôi lái chiếc xe máy cũ của bố, mẹ vợ ngồi sau, tay ôm mũ bảo hiểm, chiếc…


Buổi chiều ấy, trời như có người vừa rắc một lớp phấn mỏng lên cả làng. Nắng rót vàng nhạt, bụi tre đầu làng lấp loá như những sợi tơ khô của một con kén vừa bung. Tôi lái chiếc xe máy cũ của bố, mẹ vợ ngồi sau, tay ôm mũ bảo hiểm, chiếc khăn lụa màu ngà buộc hờ hững trên cổ bay lả tả như một câu hát hụt.

Mẹ bảo tôi chở ra thị trấn tập nhảy. Mấy đứa trẻ con trong xóm gọi mẹ là “cô Dung hồi xuân”, nửa đùa nửa trêu. Tôi lúc đầu nghe chữ “hồi xuân” cũng chát chúa nơi đầu lưỡi. Mẹ gần năm mươi, chợt thích áo có hoa, chợt thoa chút son, chợt tối thứ năm nào cũng xách túi đi học nhảy ở nhà văn hoá huyện. Bà con rì rầm, khen có, chê có; có người chép miệng bảo “đàn bà có con gái lớn rồi, nhảy múa cái nỗi chi”. Tôi nghe, im. Vợ tôi – Hạ – thì cười: “Mẹ hồi xuân để đuổi muỗi buồn.” Tôi cười theo, nhưng trong ngực cứ có một con muỗi thật, vo ve.

“Con rể!” – mẹ vỗ nhẹ vai tôi – “Đến đoạn rẽ bụi tre thì rẽ vào cho mẹ.”

“Vào… bụi tre?” Tôi ngoái đầu, lạ.

“Ừ. Vàng bụi tre đó.” Mẹ nói gọn. Gió đưa, mùi bồ kết thoảng từ tóc mẹ dịu như một câu chuyện kể nửa vời.

Chỗ “vàng bụi tre” là chỗ người ta vẫn tránh vào chập choạng vì hay có bóng. Những cây tre già vươn nghiêng, lá khô treo đầy, mỗi cơn gió thổi qua lại rào rào như ai nghiến răng. Tôi bẻ lái, bánh xe lạo xạo trên những mảnh tre khô gãy. Mẹ vỗ vai: “Dừng đây.”

Ở sâu hơn mấy bước, đất lún nhẹ, rêu trùm lên những viên gạch cổ. Giữa khoảng trũng lặng ấy là một nấm mộ cũ, bia xi măng đen mốc, chữ đã bạc đến mức như một công thức cũ viết bằng phấn trên bảng ẩm.

Tôi đứng lặng. Mẹ nói nhỏ, giọng như đặt một chiếc thìa xuống bàn gỗ: “Bố Hạ đấy. Con vào… thắp cho ông nén hương.”

Đầu gối tôi chùng xuống như vừa mất một bậc thang. Từ ngày cưới, tôi chỉ được nghe về bố vợ bằng mấy mảnh câu chuyện: ông đi xây xa xứ, rồi lạc đâu đó, rồi mất tin. Ảnh thờ trong nhà, mẹ đặt cao, che một góc bằng tấm khăn thêu hoa dại. Tôi tưởng mộ ông ở đâu tận quê ngoại. Hoá ra… ngay sau bụi tre vàng cách nhà vài phút xe.

Mẹ đặt vào tay tôi một bó nhang. Tôi châm lửa, ngọn lửa xanh lè đầu nhang bỗng vàng lên, khói quyện vào gió. Mùi trầm lẫn mùi tre khô, mùi đất cũ, mùi áo mẹ – tất cả trộn lại thành một nỗi gì khó gọi tên.

Tôi lẩm bẩm: “Con chào bố.”

Bàn tay mẹ nắm lấy khuỷu tay tôi, khẽ đến mức tưởng là gió. Mẹ hay nắm tay tôi như vậy mỗi lần muốn nói điều khó: không kéo, không đẩy, chỉ chạm cho bớt run. Mẹ bảo: “Con ở rể nhà này bốn năm rồi mà chưa biết đường vào đây, là… mẹ có lỗi. Nhưng thôi, nay vào là phải rồi.”

“Tại sao mẹ không nói sớm?” Tôi hỏi.

“Chờ ngày con rảnh.” Mẹ cười, mắt ươn ướt. “Mấy năm đầu tụi mày chạy ăn, chạy thuê nhà, chạy con. Mẹ… không muốn thêm cái chạy buồn. Với lại… mộ ông chưa được đàng hoàng.”

Tôi nhìn quanh. Quả đúng, mộ như một cái hộp quên, xung quanh cỏ mọc bời bời, có chỗ đã lấn lên mép bia. Tôi quỳ, rút trong túi khăn ướt lau những dòng chữ mờ: NGUYỄN VĂN BẢY – 1966 – 2005. Một dòng nhỏ hơn: “Chết vì nước.” Dưới chân bia ai đó khắc một chữ “Hạ” nhỏ như một vệt mưa đậu.

“Chết vì nước?” Tôi ngước lên. “Ông… đuối nước ạ?”

Mẹ lắc: “Lụt năm đó. Ông đi vớt người.”

Tôi nhớ năm 2005, lũ lớn. Tôi mười bảy, vẫn còn ở quê. Một buổi tối, nước sông dâng nhanh như người ta rót canh; tôi ôm một cái can nhựa to, bơi qua vườn nhà bác tìm chỗ cao, thì bị cuốn. Lúc chới với, có một bàn tay giơ ra kéo, giọng đàn ông khàn khàn: “Lấy hơi! Lấy hơi!” Tôi nắm lấy, được đẩy lên bờ. Người ấy lao đi tiếp, tôi chỉ nhìn kịp thấy một cái dây da nâu cuốn ở cổ tay, treo một cái còi đồng nhỏ. Sau đấy, tôi nghe nói có người đàn ông chết ở đầu cống. Không biết là ai. Tôi nghĩ “chắc người làng dưới”.

Quỳ trước bia mộ này, kí ức ấy như một giọt mực rơi xuống nước, loang nhanh.

“Ông… là người đeo còi?” Tôi buột miệng.

Mẹ nhìn tôi: “Con nhớ hả?”

Tôi kể. Mẹ im, rồi mở túi áo, rút một cái hộp thiếc cũ, đầu nắp móp một góc. Bên trong, có một cái còi đồng đã xỉn màu, dây da mòn sợi. Mẹ đặt lên tay tôi: “Đúng nó.”

Một cơn ớn lạnh chạy dọc lưng. Tôi nghe cổ họng mình khô khốc, như vừa uống hết một chén rượu đục.

“Ông vớt nhiều người lắm.” Mẹ nói khẽ, mắt nhìn vào khoảng mờ giữa hai chiếc lá tre. “Đêm ấy, người ta gọi nhau, đầu cống lùa xác. Ông cột dây ở lưng, nhảy xuống, đẩy người lên thuyền. Cái còi để thổi cho biết hướng. Có đứa mười bảy, ôm cái can, ông bảo ‘lấy hơi’, rồi đẩy nó lên bờ; nó… hệt như con kể.”

“Con…” Tôi nuốt nước bọt. “Con là thằng ôm can.”

Mẹ quay sang, nhìn tôi thật lâu, như soi mặt mình trong nước. Rồi mẹ cười—nụ cười vừa mừng vừa đau—đặt tay lên đầu tôi, xoa như xoa đầu một đứa trẻ vừa ngủ dậy: “Vậy hợp. Ông kéo con khỏi nước, giờ con tới thắp cho ông.”

Tôi cúi đầu thật thấp, hai tay chắp lại, trán chạm vào mép bia lạnh. Mùi đất chạm thẳng vào đỉnh mũi. Bỗng dưng, cái ghen ngầm ngầm với chữ “hồi xuân” của mẹ tan như một miếng băng mỏng đặt vào lòng bàn tay ấm.

“Mẹ…” tôi nói, “mẹ rủ con vào đây… chỉ để thắp hương ạ?”

“Chỉ.” Mẹ gật. “Nhưng không phải chỉ thắp. Mẹ nhờ con một việc.”

“Việc gì mẹ cứ nói.”

“Dời mộ ông.” Mẹ nói rành rọt, từng chữ như nhặt từng hạt bắp. “Đưa ông ra nghĩa trang làng cho đàng hoàng. Mẹ muốn… lát lại cho ông tấm bia cho tử tế. Mẹ để dành mấy năm rồi. Còn thiếu bốn triệu.”

Tôi giật mình. “Trời ơi, thiếu có bốn triệu mà mẹ không nói.”

Mẹ cười, đãi đằng: “Mẹ định… đợi cuối năm. Mà con rể ơi, nói ra sợ tụi mày gánh.”

“Gánh là việc của con.” Tôi nói, giọng chắc như cọc tre đóng xuống đất ẩm. “Con làm ngay.”

Mẹ khẽ gật, mắt mờ đi: “Cảm ơn con. Mẹ… hồi xuân cũng vì việc này.”

Tôi ngẩn: “Vì… dời mộ?”

“Ừ.” Mẹ cười, mím môi như giữ một bí mật chưa chín. “Hội phụ nữ huyện tổ chức đêm văn nghệ gây quỹ ‘Nắm tay nhau qua bờ bên’. Mẹ đăng ký học nhảy để diễn trong chương trình, góp tiền cho mấy nhà gặp tang khó—trong ấy có tên ông. Mẹ nhảy… vụng, người ta cười. Mẹ cũng cười. Nhưng mỗi lần tập, mẹ thấy người mình như bớt rỉ. Mẹ mang theo cái còi, cứ nghĩ… ông nhìn.”

Bảo hiểm tiền

Tôi… cứng họng. “Vậy còn chuyện người ta nói mẹ… với thầy dạy nhảy?”

“Mẹ nhảy với thầy thì phải nắm tay thầy chứ nắm tay trứng hử?” Mẹ bật cười, cái cười có mùi bồ kết. “Thầy nó bằng tuổi Hạ, gọi mẹ bằng cô. Mẹ chỉ nhảy cho chân đỡ đau thôi con.”

Tôi thấy mình nhỏ xíu như một hạt bụi tre trong nắng, vừa xấu hổ vừa nhẹ nhõm.

“Mẹ gọi con vào bụi tre,” tôi nói, “tưởng… mẹ rủ con làm điều… bí mật.”

“Mẹ rủ con làm điều bí mật thiệt chứ.” Mẹ nháy, rồi hạ giọng: “Bí mật của đàn bà già. Mẹ cần con đi cùng mẹ một đoạn, làm chỗ dựa lưng… để mẹ đứng vững mà nói với người ta: ‘Ông ấy không bỏ tôi. Ông ấy chết vì nước.’ Mẹ không sợ miệng đời, nhưng sợ… chữ ‘bỏ’ dính vào tên ông lâu quá rồi.”

Tôi nắm tay mẹ thật chặt. “Con đi. Con đứng sau.”

Cơn gió xào xạc. Khói hương quấn lấy những lá tre vàng, trôi về mô đất bên cạnh rồi tan. Tôi tưởng tượng ra bố vợ tôi – người đàn ông đeo còi – đang nở một nụ cười bẽn lẽn phía sau những vệt khói đó.

Buổi tối, tôi chở mẹ ra nhà văn hoá. Tiếng nhạc cha-cha-cha nghe như tiếng nước cười. Mấy cô mấy bác mặc váy áo rực rỡ hơn mọi ngày. Thầy giáo trẻ – cái cậu mà dân làng đồn thổi – chắp tay gọi “cô Dung ơi, hôm nay cô thử dẫn bạn nhảy mới đi ạ.” Mẹ quay qua nhìn tôi, mắt hỏi: “Con thử không?” Tôi lắc đầu như trẻ con sợ tuột dép. Mẹ cười, đi vào, vạt áo quét nhẹ nền phòng. Tôi ngồi hàng ghế sau, nhìn mẹ học từng bước: chậm – chậm – nhanh – nhanh – chậm. Mỗi lần mẹ trật nhịp, mẹ cười và nói xin lỗi bằng mắt, có cái cúi đầu rất nhỏ – thứ cúi đầu lịch thiệp của người đi qua nhiều phiên chợ.

Giữa giờ, tôi ra ngoài hiên, nhìn xuống con đường như chiếc dây ruy băng. Hạ gọi video. “Anh chở mẹ ổn không? Mẹ có làm quá không?” Tôi quay camera vào phòng tập. Hạ nhìn mẹ nhảy, mắt rưng. “Mẹ… trẻ ghê. Em… hôm nay có tin.” Hạ đưa máy xuống, tiếng tim tôi rơi vào dạ dày: “Bác sĩ nói… có tim thai rồi.”

Tôi đứng ngẩn như người vừa đổi thẻ trò mà trúng giải. “Con… ông đeo còi.” Tôi nói dại.

Hạ cười, chảy nước mắt: “Chắc ông thổi một tiếng.”

Tôi quay lại nhìn mẹ. Mẹ đang cười với thầy giáo trẻ, tay nắm nhẹ một bàn tay khác. Tôi bỗng thấy mọi ánh đèn trong phòng bớt gắt, như người ta bẻ bớt bóng đèn đi để tử tế tràn vào.

Hai tuần sau, việc dời mộ bắt đầu. Mấy chú đội ấp đưa xẻng, đưa bạt. Nghĩa trang làng đón thêm một nấm mộ mới, bia granite đen khắc rõ ràng: Nguyễn Văn Bảy – hy sinh khi cứu người trong lũ, 2005. Dưới là một câu khắc nhỏ: “Em và con đã tới.” Mẹ chọn chữ nhỏ, bảo “chữ lớn người ta đọc, chữ nhỏ… người trong nhà đọc.”

Đêm văn nghệ gây quỹ, sân trường THCS rợp cờ dây. Nhạc nổ giòn như bắp rang. Mẹ cùng đội phụ nữ lên bài cuối, bài “Đi qua bóng tối”. Mỗi người cầm một chiếc khăn lụa vàng. Khi nhạc tới đoạn lắng, họ xoè khăn ra cao, bóng khăn trùm lên mặt rồi hạ xuống chậm, như ai đó đưa tay qua một nấm mộ. Người ta vỗ tay rất lâu. Mẹ cúi đầu. Tôi đứng dưới, tim đập theo nhịp dậm chân của mẹ.

Sau tiết mục, chủ tịch xã đọc danh sách các gia đình được hỗ trợ. Tên bố vợ tôi đứng ở giữa, mọi người vỗ tay. Mẹ quay xuống, mắt tìm tôi trong đám đông, gặp. Mẹ gật, không cười. Tôi giơ ngón tay cái – động tác ngốc nghếch mà có sức nặng lạ lùng.

Đêm tan, tôi chở mẹ về. Qua bụi tre vàng, gió rịn mùi lá non. Mẹ bảo: “Dừng một chút.” Tôi tấp vào. Mẹ xuống, đứng trước lối vào – chỗ hôm đầu tiên mẹ gọi tôi rẽ – rồi quay lại, giọng đùa mà không hẳn đùa: “Con rể, cho mẹ rủ con vào trong đó thêm lần nữa.”

Bảo hiểm tiền

Tôi hiểu. Chúng tôi vào, thắp một nén hương nhỏ ở mép đường, hướng về nghĩa trang mới. Mẹ nói khẽ: “Ông nghe thấy rồi.”

Trước khi về, mẹ mở túi, rút cái còi đồng. Mẹ nâng lên, thổi một tiếng rất nhẹ. Tiếng còi không sắc như ngày xưa, chỉ như một vệt gió đi ngang qua tán tre. Nhưng ngay khi ấy, tôi thấy Hạ gửi một tin nhắn: “Em… nghén rồi. Thèm canh chua bông điên điển.” Tôi bật cười thành tiếng.

“Gì vậy?” mẹ hỏi.

“Ông… thổi vô bụng Hạ.” Tôi đùa.

Mẹ nguýt yêu: “Con trai nói năng kỳ.” Rồi mẹ bỗng nghiêm: “Đặt tên cho con đi. Tên đệm ‘Tre’ nhé. Cho nhớ bụi tre này.”

“Vâng.” Tôi gật nghiêm như ký giấy.

Ngày con chúng tôi ra đời, mùa điệp vàng xuống chín. Mẹ đứng trong phòng kính, nhìn tụi tôi. Tôi gọi điện cho thầy dạy nhảy, mời cả đội mẹ đến bệnh viện, buộc mấy chiếc khăn lụa vàng vào cán nôi. Hạ nhìn, mắt cười mệt: “Con nhà nhảy múa.”

Tôi bế con, áp lên ngực, thì trong TV ở phòng bệnh bật đúng một phóng sự địa phương: “Chuyện những người đi qua lũ.” Hình một người đàn ông ôm một cậu bé nửa ướt nửa khô – phóng sự cũ, có dòng chữ dưới chân: “2005 – Nguyễn Văn Bảy – dân quân tự vệ xã X, hi sinh khi cứu người.” Tôi nhìn con trai, thì thầm: “Đây là ông nội.”

Hạ hỏi nhỏ: “Bao giờ nói cho con nghe?”

“Đợi nó biết nghe tiếng tre.” Tôi đáp.

Nếu bây giờ ai hỏi, “Hồi đó chở mẹ vợ đang hồi xuân đi tập nhảy, đến đoạn rẽ vàng bụi tre đầu làng, mẹ vợ bỗng đề nghị vào trong đó làm gì?”, tôi sẽ nói: “Mẹ rủ tôi vào thắp hương cho một người đàn ông đeo còi đã kéo tôi khỏi nước năm mười bảy tuổi – người mà tôi cứ tưởng chỉ là bóng trong ký ức – hoá ra là bố vợ tôi.” Rồi tôi sẽ kể tiếp, rằng mẹ vợ tôi hồi xuân không phải vì một người đàn ông mới, mà vì một lời hứa cũ: nhảy một điệu cho nhẹ nợ, gây một quỹ cho nhẹ lòng, để dời một nấm mộ ra ánh sáng.

Cái kết bất ngờ nhất của câu chuyện không phải là mộ nằm trong bụi tre, cũng không phải là cái còi đồng mà mẹ vẫn giữ. Mà là ở tin nhắn tôi nhận ngay lúc mẹ thổi còi: “Thèm canh chua bông điên điển.” – một cách nói khác của sinh mệnh mới, như tiếng còi hồi rất xa vọng về. Lúc đó, giữa mùi nhang và mùi tre, tôi hiểu: những người đàn ông đi vào nước mà không trở về không hề biến mất; họ ở lại bằng một cái tên khắc nhỏ trên bia, bằng một chiếc khăn lụa trong đêm diễn, bằng một đứa trẻ vừa thở tiếng đầu tiên. Và bằng cả cái cách một bà mẹ hồi xuân, đứng bên bụi tre vàng, rủ con rể đi vào trong để học cách gọi đúng tên của nỗi nhớ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *